Contract
1. Quan niệm của Liên minh châu Âu (EU) về hợp đồng giao kết từ xa
Pháp luật của EU chú trọng việc điều chỉnh quan hệ hợp đồng được giao kết giữa thương nhân và người tiêu dùng, nhằm mục đích đảm bảo sự cân xứng về thông tin và quyền lợi của người tiêu dùng, vốn là bên yếu thế hơn trong giao dịch với thương nhân. Trong đó, Chỉ thị 97/7/EC về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong hợp đồng giao kết từ xa (sau đây gọi là Chỉ thị 97/7/EC) là văn bản pháp lí quan trọng, đặt nền móng cho giao dịch từ xa trong thương mại được kí kết giữa thương nhân với người tiêu dùng. EU xây dựng và ban hành Chỉ thị 97/7/EC về hợp đồng giao kết từ xa do nhận thấy tốc độ phát triển nhanh chóng của thị trường hàng hoá và dịch vụ không chỉ bó hẹp trong quan hệ thương mại thuần tuý giữa các thương nhân với nhau, mà còn mở rộng đến giao dịch mang tính hỗn hợp giữa thương nhân với các tổ chức, cá nhân khác trong xã hội. Ngoài ra, sự phát triển của công nghệ mới và phương tiện thông tin cũng đóng góp không nhỏ vào sự sôi động của thị trường, xoá bỏ ranh giới về khoảng cách địa lí giữa các bên giao kết hợp đồng. Mục đích của Chỉ thị này nhằm hướng tới việc làm rõ quyền và trách nhiệm của các chủ thể trong việc giao kết hợp đồng sử dụng phương tiện trung gian, nhằm bảo vệ quyền lợi của tổ chức và cá nhân tiêu dùng.
ThS. Xx X-xxx Xxxxx *
Hiện nay, theo cách tiếp cận của EU, hợp đồng giao kết từ xa (distance contract) là loại hợp đồng mua bán hàng hoá hoặc cung ứng dịch vụ được kí kết giữa nhà cung cấp và khách hàng, sử dụng một hoặc nhiều phương tiện thông tin từ xa trong quá trình giao kết hợp đồng. Trong đó, nhà cung cấp có thể là thương nhân kinh doanh hàng hoá, cung ứng dịch vụ hoặc thương nhân làm dịch vụ theo uỷ quyền.(1) Hợp đồng giao kết từ xa là thuật ngữ dùng để chỉ các loại hợp đồng với phương thức giao kết từ xa, phân biệt với các hợp đồng được các bên giao dịch trực tiếp. Về bản chất, các hợp đồng này có nội dung của hợp đồng mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ thông thường và phải tuân thủ quy định điều chỉnh quan hệ mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ cụ thể đó. Tuy nhiên, vì có sử dụng phương tiện thông tin và (có thể) có sự tham gia của chủ thể trung gian nên loại hợp đồng này cần có sự điều chỉnh cụ thể và đặc thù hơn. Hợp đồng giao kết từ xa được điều chỉnh bởi
Chỉ thị 97/7/EC có các đặc điểm sau:
- Bên bán hàng hoá, cung cấp dịch vụ (gọi tắt là bên cung cấp) phải có tư cách thương nhân; bên mua hàng hoá, sử dụng dịch vụ (gọi tắt là khách hàng) là người tiêu dùng, giao kết hợp đồng không với mục đích thương mại;
* Giảng viên Khoa pháp luật kinh tế Trường Đại học Luật Hà Nội
- Thường có sự tham gia của chủ thể thứ ba với tư cách là trung gian thông tin;
- Phương tiện trung gian mà các bên sử dụng chủ yếu là phương tiện điện tử.
2. Một số quy định pháp luật của EU về hợp đồng giao kết từ xa
Theo EU, giao dịch không trực tiếp và thông qua phương tiện trung gian giữa các bên trong hợp đồng được gọi là giao dịch từ xa, với cơ sở pháp lí là hợp đồng giao kết từ xa. Các văn bản pháp luật hiện hành của EU về loại giao dịch này bao gồm:
- Chỉ thị 97/7/EC về bảo vệ quyền lợi quyền lợi người tiêu dùng trong hợp đồng giao kết từ xa;
- Chỉ thị 2002/65/EC về tiếp thị từ xa đối với dịch vụ tài chính cung cấp cho khách hàng và sửa đổi các chỉ thị 90/619/EEC, 97/7/EC, 98/27/EC;
- Chỉ thị 2005/29/EC về các giao dịch thương mại gian lận giữa doanh nghiệp với khách hàng ở thị trường trong nước và sửa đổi Chỉ thị 84/450/EEC, Chỉ thị 97/7/EC, Chỉ thị 2002/65/EC và Quy tắc số 2006/2004 của Hội đồng nghị viện châu Âu;
- Chỉ thị 2007/64/EC về dịch vụ thanh toán trong thị trường trong nước sửa đổi các chỉ thị 97/7/EC, 2002/65/EC, 2005/60/EC và 2006/48/EC và bãi bỏ Chỉ thị 97/5/EC;…
2.1. Phạm vi điều chỉnh
EU xác định phạm vi điều chỉnh của Chỉ thị 97/7/EC theo ba tiêu chí: Chủ thể tham gia giao dịch, đối tượng của hợp đồng và phương tiện giao kết hợp đồng.
Theo đó, căn cứ vào chủ thể hợp đồng, Chỉ thị 97/7/EC chỉ áp dụng với giao dịch thương mại từ xa của thương nhân với khách hàng là cá nhân, tổ chức không tham gia vào giao dịch với mục đích thương mại, nghề
nghiệp (gọi chung là người tiêu dùng). Như vậy, có thể hiểu Chỉ thị 97/7/EC không điều chỉnh giao dịch dân sự giữa người tiêu dùng với nhau cũng như giao dịch thương mại thuần tuý giữa các thương nhân có sử dụng phương tiện trung gian thông tin. Nhưng nếu là giao dịch giữa một bên thương nhân với thương nhân mua hàng hoá, sử dụng dịch vụ với mục đích dân sự, tiêu dùng thì có thuộc phạm vi điều chỉnh của Chỉ thị 97/7/EC hay không? Cách quy định tại Chỉ thị 97/7/EC chưa làm rõ được vấn đề này.
Căn cứ vào đối tượng của hợp đồng, Chỉ thị 97/7/EC không áp dụng cho hợp đồng được giao kết từ xa trong lĩnh vực xây dựng, kinh doanh bất động sản (trừ trường hợp cho thuê bất động sản) và đấu giá. Đặc biệt, hợp đồng giao kết từ xa trong lĩnh vực dịch vụ tài chính cũng không áp dụng Chỉ thị 97/7/EC, mà được điều chỉnh riêng biệt tại Chỉ thị 2002/65/EC về tiếp thị từ xa đối với dịch vụ tài chính cung cấp cho khách hàng và sửa đổi các chỉ thị 90/619/EEC, 97/7/EC, 98/27/EC. Chỉ thị 97/7/EC không áp dụng cho việc cung cấp thực phẩm, đồ uống hoặc hàng hoá tiêu dùng hàng ngày khác, được thương nhân giao tận nơi theo yêu cầu của người tiêu dùng, do giá trị của giao dịch này thường nhỏ và mức độ phức tạp không cao.
Căn cứ vào phương tiện giao kết hợp đồng, Chỉ thị này không áp dụng cho giao dịch từ xa sử dụng phương tiện trung gian là máy điện thoại công cộng, máy bán hàng tự động hoặc hoạt động thương mại sử dụng công nghệ tự động hoá.
2.2. Phương tiện giao kết hợp đồng
Chỉ thị 97/7/EC quy định khá rõ ràng và chi tiết về các loại phương tiện giao kết hợp đồng từ xa. Theo đó, phương tiện giao kết
hợp đồng từ xa là: “Bất kì phương tiện nào được sử dụng khi giao kết hợp đồng mà không tạo cho các bên sự gặp gỡ trực tiếp đồng thời…”(2) bao gồm: Ấn phẩm không ghi địa chỉ (unaddressed printed matter), ấn phẩm có ghi địa chỉ (addressed printed matter), thư tín (standard letter), quảng cáo trên báo chí có mẫu yêu cầu (press advertising with order form), cát-tơ- lô (catalogue), điện thoại có người trả lời, điện thoại không có người trả lời (máy trả lời tự động, trả lời thu sẵn), đài phát thanh, đàm thoại hình ảnh qua điện thoại (videophone), hệ hiển thị dữ liệu trên vi tính có phím hoặc cảm ứng, thư điện tử, fax, vô tuyến truyền hình (teleshopping).
Tuy nhiên, cần lưu ý rằng thương nhân không được sử dụng máy trả lời tự động (không có người trực tiếp trả lời) và fax để giao kết hợp đồng nếu không có sự đồng ý trước từ phía khách hàng.(3 ) Như vậy, với phương thức liệt kê như trên, EU đã “khoanh vùng” loại phương tiện được phép sử dụng đối với giao dịch hợp đồng từ xa. Với xu thế công nghệ phát triển ngày càng mạnh mẽ trên toàn cầu, cách quy định này của EU đã trở nên lạc hậu. Theo chuyên gia phân tích pháp luật EU, Chỉ thị 97/7/EC đã: “Thất bại trong việc đáp ứng và tương thích với những phương tiện đa dạng trong việc quản lí thương mại”.(4) Ví dụ, giao dịch thương mại thông qua phương tiện di động (mcommerce) đã bị EU “bỏ sót” trong điều luật trên.
2.3. Quyền và nghĩa vụ đặc thù của các bên trong hợp đồng giao kết từ xa
Trong quan hệ hợp đồng, EU cũng đề cao nguyên tắc tự do thoả thuận. Tuy nhiên, vì tính rủi ro cao của hợp đồng giao kết từ xa cũng như để đảm bảo quyền lợi cho bên yếu
thế hơn là người tiêu dùng, EU đã có quy định đặc biệt dành cho các bên trong hợp đồng giao kết từ xa, cụ thể như sau:
Thứ nhất, bên cung cấp có nghĩa vụ cung cấp các thông tin “tiền hợp đồng”
Các thông tin “tiền hợp đồng” bao gồm:(5)
1) Các đặc điểm nhận diện nhà cung cấp và nếu trong trường hợp hợp đồng có điều khoản yêu cầu thanh toán trước thì phải cung cấp địa chỉ cụ thể;
2) Đặc tính chính của hàng hoá hoặc dịch vụ;
3) Giá hàng hoá hoặc dịch vụ (có bao gồm cả thuế);
4) Chi phí giao hàng hợp lí;
5) Thoả thuận về thanh toán, giao hàng hoá hoặc thực hiện dịch vụ;
6) Thoả thuận về quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng, trừ một số trường hợp không được đơn phương chấm dứt hợp đồng quy định tại Điều 6.(3);
7) Chi phí sử dụng phương tiện từ xa, mà chi phí này được tính khác tỉ giá cơ bản;
8) Thời gian mà lời đề nghị giao kết hoặc giá cả có hiệu lực;
9) Thời hạn tối thiểu thích hợp của hợp đồng cung cấp hàng hoá hoặc dịch vụ được thực hiện thường xuyên hoặc định kì.
Các thông tin trên đây phải được nhà cung cấp nêu rõ ràng và dễ hiểu mục đích thương mại, tuỳ theo phương tiện thông tin từ xa được sử dụng. Ngoài ra, trong trường hợp phương tiện giao kết là điện thoại thì đặc điểm nhận diện nhà cung cấp và mục đích thương mại của giao dịch phải được thể hiện rõ ràng ngay tại bất kì cuộc đàm thoại nào với khách hàng. Tuy nhiên, quy định này của EU về nghĩa vụ cung cấp thông tin “tiền hợp đồng” cần được rõ ràng hơn về thời hạn, hình thức cung cấp thông tin…
Cần lưu ý rằng nếu các thông tin từ 1 đến 9 không được cung cấp cho khách hàng bằng văn bản hoặc bằng phương tiện có tính đảm bảo cao trước khi kết thúc việc giao kết hợp đồng thì trong quá trình thực hiện hợp đồng, nhà cung cấp phải xác nhận lại bằng văn bản, trong khoảng thời gian hợp lí nhưng chậm nhất là thời điểm chuyển giao hàng hoá.
Ngoài ra, trong bất kì trường hợp nào, thông tin quan trọng sau bắt buộc phải được bên bán cung cấp bằng hình thức văn bản trong thời hạn 03 tháng kể từ ngày chuyển giao hàng hoá cho người tiêu dùng (đối với hàng hoá) hoặc từ ngày kí kết hợp đồng (đối với dịch vụ): Thông tin về điều kiện và thủ tục thực hiện quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng; thông tin về địa chỉ liên lạc của bên bán để khách hàng có thể gửi phản hồi về hàng hoá, dịch vụ; thông tin về dịch vụ sau khi mua bán (after-sales services) và dịch vụ bảo hành (nếu có); thoả thuận về việc huỷ bỏ hợp đồng, nếu thời hạn này không được xác định hoặc được xác định trên 1 năm.
Thứ hai, nghĩa vụ thực hiện hợp đồng của bên cung cấp
Trừ trường hợp có thoả thuận khác, bên cung cấp bắt buộc phải thực hiện hợp đồng trong thời hạn tối đa 30 ngày, kể từ ngày khách hàng đặt hàng, yêu cầu dịch vụ. Nếu bên cung cấp không sẵn sàng thực hiện cung cấp hàng hoá, dịch vụ thì phải thông báo cho khách hàng về hoàn cảnh, lí do và có thể phải hoàn trả khoản tiền khách hàng đã thanh toán trong khoảng thời gian hợp lí nhưng không vượt quá 30 ngày. Như vậy, quy định này của EU đã gián tiếp “nới lỏng” nghĩa vụ bắt buộc cung cấp đối với người tiêu dùng. Ví dụ, thương nhân bán hàng qua truyền hình, trang web điện tử… khi đã đề
nghị giao kết và người tiêu dùng chấp nhận, thì về nguyên tắc, phải có nghĩa vụ cung cấp hàng hoá đó. Tuy nhiên, nếu vì lí do chính đáng mà thương nhân đó chưa có hàng ngay hoặc không thể cung cấp hàng hoá, dịch vụ cho khách hàng thì cũng không phải chịu chế tài từ việc vi phạm nghĩa vụ cung cấp.
Thứ ba, quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng của bên mua
Để bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong
hợp đồng giao kết từ xa, người tiêu dùng có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng trong thời hạn 07 ngày kể từ thời điểm:
- Đối với hàng hoá, được tính từ ngày khách hàng nhận được văn bản xác nhận với nội dung bên bán bắt buộc phải cung cấp bằng văn bản;
- Đối với dịch vụ, được tính từ thời điểm kí kết hợp đồng hoặc thời điểm bên mua nhận được nội dung bên bán có nghĩa vụ cung cấp bằng văn bản nếu thời điểm này là sau khi hợp đồng được kí kết nhưng không vượt quá 03 tháng.(6)
Khi bên mua thực hiện quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng một cách hợp pháp theo quy định trên, nhà cung cấp có nghĩa vụ hoàn trả khoản tiền mà người tiêu dùng đã thanh toán trong thời hạn sớm nhất nhưng không quá 30 ngày, trừ chi phí do việc trả lại hàng hoá gây nên. Theo quy định này, người tiêu dùng không phải chịu khoản chi phí phần hàng hoá, dịch vụ đã sử dụng và cũng không cần nêu lí do đơn phương chấm dứt hợp đồng. Quy định này có thể mang lại rủi ro lớn cho phía cung cấp nếu người tiêu dùng chỉ có ý định mua hàng, yêu cầu dịch vụ để dùng thử rồi trả lại. Lí do EU quy định quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng của
người tiêu dùng khi giao kết hợp đồng từ xa, đó là dù khách hàng đã được cung cấp điều khoản “tiền hợp đồng” nhưng thông tin này cũng không đủ độ “tương xứng” và miêu tả rõ ràng, chi tiết chất lượng, kiểu dáng hàng hoá, đặc tính dịch vụ… như cách thức giao kết hợp đồng trực tiếp. Tuy nhiên, có ý kiến cho rằng việc quy định chung thời hạn là 07 ngày cho tất cả hàng hoá, dịch vụ như trên là bất hợp lí. EU cần chỉnh sửa theo hướng quy định thời hạn cụ thể, dựa trên sự phân loại tương ứng, với đặc tính khác nhau cho mỗi loại sản phẩm, dịch vụ.
Nếu các bên không có thoả thuận khác, người tiêu dùng có thể không được hưởng quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng trong các trường hợp:
- Người tiêu dùng đã biết về việc bên cung cấp chưa cung cấp đầy đủ và đúng thông tin bắt buộc nhưng vẫn đồng ý cho bên cung cấp thực hiện dịch vụ, chuyển giao hàng hoá;
- Việc thay đổi giá cả của hàng hoá, dịch vụ không phụ thuộc vào sự điều chỉnh của bên cung cấp, mà phụ thuộc vào sự biến động của thị trường;
- Việc cung cấp hàng hoá đặc biệt cho khách hàng nhất định, mà vì đặc tính riêng biệt này khiến cho hàng hoá không thể bị trả lại hoặc có khả năng làm giảm giá trị hàng hoá hoặc hết hạn một cách nhanh chóng;
- Việc cung cấp băng thu âm, thu hình hoặc phần mềm máy tính được dành riêng cho khách hàng nhất định;
- Việc cung cấp báo, tạp chí và cung cấp
các dịch vụ trò chơi, may rủi.
Đây là các trường hợp “loại trừ” quyền được đơn phương chấm dứt hợp đồng của bên người tiêu dùng khá hợp lí theo quy định
của EU nhằm đảm bảo tính công bằng, quyền và lợi ích hợp pháp của bên cung cấp.
3. Một số bài học kinh nghiệm cho
Việt Nam
Hiện nay, tại Việt Nam, vấn đề giao kết hợp đồng từ xa được quy định tại Nghị định của Chính phủ số 99/2011/NĐ-CP ngày 27/10/2011 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010 (gọi tắt là Nghị định 99/2011/NĐ-CP). Nghị định đã đề cập cũng như giải quyết một số nội dung mang tính cơ bản về loại hợp đồng này. Quy định pháp luật của Việt Nam cũng khá tương đồng với pháp luật của EU, đó là đều điều chỉnh việc giao kết hợp đồng từ xa, trên phương diện bảo vệ quyền lợi của bên yếu thế hơn - người tiêu dùng. Tuy nhiên, dù đã học hỏi theo tinh thần Chỉ thị 97/7/EC nhưng Nghị định 99/2011/NĐ-CP chưa điều chỉnh hết vấn đề nảy sinh trong quan hệ này. Trên cơ sở tham khảo Chỉ thị 97/7/EC, Việt Nam cần bổ sung và cân nhắc sửa đổi một số nội dung, cụ thể như sau:
- Mở rộng phạm vi “phương tiện giao kết từ xa”. Hiện nay, hợp đồng giao kết từ xa chỉ được hiểu là hợp đồng giao kết giữa người tiêu dùng và tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hoá, dịch vụ thông qua phương tiện điện tử hoặc điện thoại.(7) Việt Nam cần bổ sung thêm phương tiện giao kết từ xa không phải là phương tiện điện tử, theo cách quy định của EU như thư tay, tạp chí, ấn phẩm... Bên cạnh đó, nội dung quy định về phương tiện giao kết từ xa đã liệt kê trùng lặp (vì điện thoại cũng chính là phương tiện điện tử). Tuy nhiên, Việt Nam cũng cần cân nhắc cách quy định theo hướng mở, tránh việc liệt kê như Chỉ thị 97/7/EC, vì sẽ dẫn đến liệt kê
thiếu, không cần thiết hoặc nhanh lạc hậu.
- Cần có quy định hạn chế một số loại phương tiện giao kết từ xa như máy trả lời tự động, fax. Bởi lẽ, những phương tiện này dễ tạo rủi ro trong giao dịch vì không tạo được sự tương tác cao giữa các bên. Ví dụ, nếu phương tiện là điện thoại có người trả lời thì việc cung cấp thông tin “tiền hợp đồng” sẽ đầy đủ và chi tiết hơn, người tiêu dùng có thể được tư vấn về sản phẩm hàng hoá, dịch vụ; đối với máy trả lời tự động thì người tiêu dùng sẽ chỉ có thông tin một chiều, có khả năng không nhận được thông tin mà họ quan tâm.
- Cần xác định rõ thời điểm bên bán bắt buộc phải cung cấp thông tin được liệt kê tại khoản 1 Điều 17 Nghị định 99/2011/NĐ-CP, bao gồm: Tên của tổ chức, cá nhân kinh doanh, số điện thoại liên lạc, địa chỉ, trụ sở, địa chỉ cơ sở chịu trách nhiệm về đề nghị giao kết hợp đồng (nếu có); chất lượng của hàng hoá, dịch vụ; chi phí giao hàng (nếu có); phương thức thanh toán, phương thức giao hàng hoá, cung ứng dịch vụ; thời gian có hiệu lực của đề nghị giao kết và mức giá đề nghị giao kết; chi phí sử dụng phương tiện thông tin liên lạc cho việc giao kết hợp đồng, nếu chi phí này chưa được tính vào giá của hàng hoá, dịch vụ; chi tiết về tính năng, công dụng, cách thức sử dụng của hàng hoá, dịch vụ là đối tượng hợp đồng.
Hiện nay, việc quy định về nội dung thông tin bắt buộc mà bên bán phải cung cấp khi giao kết hợp đồng từ xa cho thấy Việt Nam đã có sự tham khảo từ pháp luật EU. Tuy nhiên, nếu EU quy định rõ thời điểm cung cấp thông tin là ngay từ giai đoạn bên cung cấp đề nghị giao kết (với ý nghĩa là thông tin “tiền hợp đồng”) thì Việt Nam lại chưa quy định rõ
ràng về vấn đề này, mà chỉ quy định chung chung là “thời điểm khi giao kết hợp đồng từ xa”. Chính vì vậy, người tiêu dùng khi giao kết hợp đồng từ xa sẽ gặp rủi ro nhiều hơn so với phương thức trực tiếp do không thể tự nhận biết, đánh giá được các đặc tính và thông tin cơ bản của sản phẩm, dịch vụ một cách chính xác, bên cung cấp có thể lợi dụng để xâm phạm quyền và lợi ích của người tiêu dùng. Vì vậy, mục đích của EU khi quy định thời điểm cung cấp thông tin tại giai đoạn bên cung cấp đề nghị giao kết là nhằm đảm bảo tính cân xứng thông tin về hàng hoá, dịch vụ đối với người tiêu dùng. Pháp luật của Việt Nam cần quy định chi tiết hơn về thời điểm bên cung cấp phải có nghĩa vụ cung cấp thông tin là tại giai đoạn gửi đề nghị giao kết hợp đồng. Ngoài ra, việc bắt buộc bên cung cấp phải xác nhận lại một số thông tin bằng văn bản là điều cần thiết (có thể xác nhận tại thời điểm hợp lí trong quá trình thực hiện hợp đồng nhưng phải trước khi chuyển giao hàng hoá, cung cấp dịch vụ cho người tiêu dùng) nhằm phòng tránh rủi ro cho các bên.
- Cần xác định rõ thời điểm bắt đầu tính hiệu lực để bên người tiêu dùng thực hiện quyền đơn phương chấm dứt hiệu lực. Hiện nay, khoản 3 Điều 17 Nghị định 99/2011/NĐ-CP quy định: “Trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác, trong trường hợp tổ chức, cá nhân kinh doanh cung cấp không đúng, không đầy đủ thông tin quy định tại khoản 1 Điều này thì trong thời hạn mười (10) ngày kể từ ngày giao kết hợp đồng, người tiêu dùng có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng đã giao kết và thông báo cho tổ chức, cá nhân kinh doanh. Người tiêu dùng không phải trả bất kì chi phí nào liên quan đến việc
chấm dứt đó và chỉ phải trả chi phí đối với phần hàng hoá, dịch vụ đã sử dụng”. Tuy nhiên, trong giao dịch từ xa, pháp luật Việt Nam vẫn chưa xác định rõ, cũng như còn nhiều tranh cãi xung quanh vấn đề thời điểm giao kết hợp đồng loại này. Ví dụ: Hành vi bên bán giới thiệu hàng hoá trên truyền hình đã được coi là “đề nghị giao kết” hay chưa? Hành vi người mua tiến hành gọi điện thoại đặt hàng mới là “đề nghị giao kết” hay là hành vi “chấp nhận đề nghị giao kết”…? Như vậy, phải làm rõ được hành vi “đề nghị giao kết” và “chấp nhận đề nghị giao kết” thì mới xác định được thời điểm giao kết hợp đồng.
- Cần bổ sung một số trường hợp người tiêu dùng không được quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng. Theo đó, Việt Nam có thể tham khảo cách quy định của EU để quy định bổ sung sao cho phù hợp. Cụ thể, với một số trường hợp như: Người tiêu dùng đã biết về việc bên cung cấp chưa cung cấp đầy đủ, đúng thông tin bắt buộc nhưng vẫn đồng ý cho bên cung cấp đã hoặc đang thực hiện dịch vụ, chuyển giao hàng hoá; việc thay đổi giá cả của hàng hoá, dịch vụ không phụ thuộc vào sự điều chỉnh của bên cung cấp, mà phụ thuộc vào sự biến động của thị trường; đối tượng của hợp đồng là hàng hoá, dịch vụ đặc biệt cho khách hàng nhất định, mà vì đặc tính riêng biệt này làm cho hàng hoá không thể bị trả lại hoặc có khả năng làm giảm giá trị hàng hoá hoặc hết hạn một cách nhanh chóng (ví dụ: Một xe ô tô được đặt hàng với loại màu sắc đặc biệt, việc cung cấp dịch vụ trọn gói cho riêng một khách hàng nhất định với yêu cầu riêng từ phía khách hàng như dịch vụ tổ chức sự kiện, đám cưới…). Quy định như vậy sẽ bảo vệ
quyền lợi hợp lí và cân bằng hơn cho cả hai bên, người tiêu dùng và bên cung cấp.
Tiếp thu kinh nghiệm của EU về hợp
đồng giao kết từ xa sẽ giúp Việt Nam sớm hoàn thiện pháp luật về thương mại nói chung và pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng nói riêng. Việc rà soát và sửa đổi, bổ sung quy định tại các văn bản luật hiện nay là việc làm cần thiết để quy định này thực sự đi vào cuộc sống, giúp bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân trong xã hội./.
(1).Xe m: Điều 2.(1) Chỉ thị 97/7/ EC về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong hợp đồng giao kết từ xa, nguồn: xxxx://xxxxx x.xxxxxx.xx/Xx xUriServ/ Le xUriServ. do?uri=OJ:L:1997:144:0019:0027:EN:PDF
(2).Xe m: Điều 2.(4) Chỉ thị 97/7/ EC về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong hợp đồng giao kết từ xa, nguồn: xxxx://xxx-xxx.xxxxxx.xx/XxxXxxXxxx/Xx xUriServ. do?uri=OJ:L:1997:144:0019:0027:EN:PDF
(3).Xe m: Điều 10 Chỉ thị 97/ 7/EC về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong hợp đồng giao kết từ xa, nguồn: xxxx://xxx-xxx.xxxxxx.xx/XxxXxxXxxx/Xx xUriServ. do?uri=OJ:L:1997:144:0019:0027:EN:PDF
(4).Xe m: Xxxxxxx, A and Xxxxxxxxx, K and XxXxxxxx, D, The distance selling directive: consumer champion or complete irrelevance?, 2003, pg.3, nguồn: xxxx://xxxxxxxxxxxx. xxxxxx.xx.xx/0000/0/xxxxxxxxxxxx000000.xxx
(5). Tuy nhiên, d ịch vụ được thực hiện thông qua việc sử dụng phương tiện thông tin từ xa mà chỉ cung cấp một lần và được xuất hoá đơn bởi người điều hành phương tiện thông tin từ xa (ví dụ: Dịch vụ trả lời điện thoại, giải đáp thắc mắc…) thì không phải cung cấp thông tin này.
(6).Xe m: Điều 5.1 Chỉ thị 97/7/ EC về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong hợp đồng giao kết từ xa, nguồn: xxxx://xxx-xxx.xxxxxx.xx/XxxXxxXxxx/Xx xUriServ. do?uri=OJ:L:1997:144:0019:0027:EN:PDF
(7).Xe m: Khoản 1 Điều 3 Nghị định của Chính phủ số
99/ 2011/NĐ-CP ngày 27/ 10/ 2011 quy đ ịnh chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010.